Biến nguồn thải thành nguồn thu
Tại Tây Nguyên, nhiều mô hình nông lâm kết hợp gắn với bảo vệ rừng, thích ứng với biến đổi khí hậu, chống xói mòn đất đã triển khai thành công như: mô hình chăn nuôi đàn gia súc dưới tán rừng, trồng xen cây cà phê với cây ăn quả, cà phê trồng xen muồng đen, trang trại lớn gắn với công tác bảo vệ rừng....
Nông sản nổi tiếng nhất tại Tây Nguyên là cà phê, chiếm hơn 90% tổng sản lượng cả nước, giúp Việt Nam là quốc gia xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, đây cũng là nguồn phát thải các bon lớn do người dân chưa có kinh nghiệm sử dụng lượng phân bón, nước và năng lượng một cách hiệu quả, bền vững.
Nghiên cứu của Tổ chức Sáng kiến Thương mại Bền vững (IDH) chỉ ra, các trang trại trồng độc canh cà phê là nguồn thải các bon ròng. Trung bình, để sản xuất được 1 tấn cà phê, lượng khí cacbonic thải ra tương đương vào không khí lên tới 0,37 tấn CO2 mỗi năm.
Để cải thiện, IDH tài trợ một số dự án tại các tỉnh Đăk Lăk và Lâm Đồng thông qua sáng kiến Cảnh quan Bền vững (ISLA). Nhờ dự án này, các trang trại trồng cà phê theo phương thức đa canh, giúp triệt tiêu 0,16 tấn cacbonic khỏi bầu khí quyển mỗi năm tính trên mỗi tấn cà phê thu hoạch. Các trang trại này tạo ra lượng sinh khối lớn hơn, từ đó cô lập nhiều cacbonic hơn lượng phát thải trong quá trình sản xuất.
Qua nghiên cứu trong hai năm, từ 300 trang trại trồng cà phê, IDH khuyến nghị nông dân sử dụng mô hình canh tác đa canh với mật độ phân tán cà phê - cây trồng khác là 70 - 30. Điều này giúp duy trì sản lượng cà phê hàng năm ở mức 3 tấn/ha. Tiêu, sầu riêng và bơ là những loài cây phù hợp nhất để trồng xen canh ở mật độ này.

Bà Trần Quỳnh Chi, Giám đốc khu vực châu Á IDH.
Bà Trần Quỳnh Chi, Giám đốc khu vực châu Á IDH cho biết: “Ngoài những tác động tích cực lên môi trường, người dân còn có thêm nguồn thu từ một số loại cây trồng phù hợp. Đây cũng là quan điểm của IDH trong tiếp cận cảnh quan nông nghiệp sinh thái, khi nhóm tất cả các nhà sản xuất, các bên liên quan, sở hữu và sử dụng đất trong một khu vực địa lý".
Một điểm tích cực nữa khi chuyển đổi hệ thống nông nghiệp sinh thái, là nhiều trang trại cà phê tại Tây Nguyên trở thành nguồn thu các bon, thay vì nguồn phát thải như trước. Bà Chi chia sẻ, trong số các trang trại đa canh cao, 73% có lượng phát thải các bon âm (hấp thụ nhiều hơn thải ra), trong khi chỉ 27% có lượng phát thải dương. Đối với các trang trại canh tác độc canh, bức tranh lại hoàn toàn khác khi 70% trang trại đóng vai trò là những nguồn phát các bon.
Song song với đổi mới cách tiếp cận, các trang trại cà phê Tây Nguyên còn lợi thế lớn trong phát triển du lịch. Mới đây, xã Đak Krong là một trong 5 địa điểm ở Tây Nguyên được chọn thực hiện dự án thí điểm phát triển cà phê bền vững theo phương pháp tiếp cận cảnh quan, theo sáng kiến của Dự án VnSAT nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
FAO coi nông nghiệp sinh thái là công cụ chính trong tiến trình chuyển đổi sang các hệ thống lương thực bền vững. Để thực hiện mục tiêu này, FAO chủ trương đẩy mạnh các lớp tập huấn hiện trường, giúp người nông dân giải quyết các vấn đề cụ thể của họ, cung cấp cho họ các thông tin cần thiết và tư vấn những công cụ ra quyết định.
Một trong những thành công của FAO là tiếp thị sản phẩm gạo nếp cẩm và nếp hồng được người dân trồng trên dãy Himalaya thuộc Ấn Độ. Ở độ cao từ 1.200 đến 1.800m so với mực nước biển, những giống lúa này chủ yếu được trồng và tiêu thụ tại chỗ ở các lễ hội và hiếm khi được bán rộng rãi trên thị trường do chi phí vận chuyển, và thị hiếu chung.
Qua tìm hiểu, các chuyên gia của FAO nhận thấy, những giống lúa này có lợi ích dinh dưỡng vượt trội như giàu chất xơ, chứa nhiều chất chống oxy hóa, vitamin E, protein, sắt, và có hàm lượng đường thấp. Ban Thư ký Đối tác Miền núi của FAO đã hỗ trợ cho nông hộ trồng giống lúa này thông qua các khóa đào tạo, giới thiệu và cung cấp quy cách đóng gói bao bì và mang giống lúa tới một số triển lãm ở New Delhi để quảng bá.